Sức mạnh của một quốc gia được thể hiện qua nhiều yếu tố, trong đó GDP là một trong nhiều những chỉ tiêu thể hiện tình trạng của một quốc gia. Chỉ số này đánh giá sức mạnh tài chính của một đất nước, mức sống chung của người dân tại một khu vực. Tuy nhiên, GDP trong tài chính được tính toán theo nhiều tiêu chí khác nhau. Chúng ta sẽ đi tìm hiểu rõ hơn về cách tính GDP và phân loại những chỉ số GDP theo từng nhóm.
1. GDP là gì?
Gross Domestic Product hay tổng sản phẩm quốc nội là tên gọi đầy đủ của GDP. GDP thể hiện tổng giá trị của dịch vụ, hàng hóa mà quốc gia đó sản xuất được trong một khu vực địa lý tại một khoảng thời gian cụ thể. Trong tài chính, khoản thời gian đó được tính theo tháng, quý, năm…
Để đánh giá, so sánh sức mạnh, quy mô kinh tế của một đất nước thông thường chúng ta thường căn cứ vào chỉ số GDP. Tuy nhiên, nó vẫn còn đánh giá chưa chính xác được hết toàn bộ yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế.
2. Phân biệt các loại GDP trong tài chính
2.1 GDP bình quân đầu người
GDP per capita hay GDP bình quân đầu người là chí số đánh giá thể hiện được mức độ sản xuất tính trên đầu người tại một đất nước trong khoản thời gian một năm. Để xác định được GDP bình quân của một đất nước tại mốc thời gian nào đó, chúng ta sẽ lấy chỉ số này của đất nước đó sau đó chia cho tổng số dân của quốc gia trong năm tính thống kê.
Chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra GDP bình quân của một đất nước sẽ có tỉ lệ thuận cùng với đời sống, thu nhập của cư dân trong khu vực đó. Nhưng chúng ta không thể khẳng định rằng, một nước có GDP bình quân cao thì đất nước đó có mức sống cao.
2.2 GDP danh nghĩa
GDP danh nghĩa thể hiện tổng giá trị các loại sản phẩm, dịch vụ, hàng hóa được bán ra thị trường trong khoảng thời gian 1 năm, giá của các loại sản phẩm được bán ra đã bảo gồm giảm phát, lạm phát.
GDP danh nghĩa của một quốc gia tăng khi giá cả của hàng hóa có sự tăng giá, tuy nhiên chỉ số này lại không đánh giá được một cách chính xác tổng giá trị và sản lượng của dịch vụ, hàng hóa. Chính vì thế, chúng ta sẽ rất ít thấy người làm thống kê sử dụng GDP danh nghĩa, mà thay vào đó là dùng GDP thực tế để đánh giá chính xác hơn.
2.3 GDP thực tế
Chỉ số GDP thực tế thể hiện tổng giá trị của sản phẩm, dịch vụ, hàng hóa trong khoản thời gian 1 năm. GDP thực tế được sử dụng thường xuyên khi phân tích kinh tế giữa các nước với nhau bởi nó phản ánh được rõ ràng về giá trị, số lượng của hàng hóa, dịch vụ. Hai yếu tố giảm phát, lạm phát đã được tách rời khi thực hiện tính chỉ tiêu này. Cụ thể:
GDP(tt) = GDP(dn)/(lạm phát +1)
3. Chỉ số GDP có ý nghĩa gì trong kinh tế?
GDP phản ánh tốc độ phát triển, tăng trưởng của một đất nước khi nó cho thấy sự biến động của dịch vụ và sản phẩm theo từng giai đoạn. Trong trường hợp GDP xảy ra sự sụt giảm, nó sẽ có tác động không tốt đến nền kinh tế chung của một đất nước khiến cho giá trị đồng tiền bị giảm, xảy ra suy thoái, thất nghiệp, lạm phát cũng vì thế mà leo thang…
Nhà đầu tư trên thế giới sẽ nhìn vào GDP của một quốc gia để nhận định tiềm năng phát triển của thị trường trong nước. Khi chỉ số này có sự tăng trưởng đều theo thời gian là điều kiện tốt để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Chính phủ, các tổ chức tài chính trong nước dựa vào GDP để đưa ra các chính sách kinh tế phù hợp với từng thời kỳ. Những quyết định nới lỏng có thể sẽ tạo ra cơ hội cho thị trường phát triển nhanh hơn. Ngược lại, khi thị trường có dấu hiệu lạm phát xảy ra, các chính sách thắt chặt sẽ được sử dụng để kìm hãm lạm phát ở thị trường trong nước.
4. Có những cách để xác định GDP nào?
4.1 Tính GDP dựa trên tổng chi tiêu
Có nhiều cách để xác định GDP, dựa trên tổng chi tiêu của toàn bộ các chủ thể là hộ gia đình trong một đất nước chúng ta có thể xác định được GDP. Những loại hàng hóa, dịch vụ được các hộ gia đình mua sắm trong một khoản thời gian phản ảnh nên chỉ số này theo công thức:
GDP = C + G + I + NX
Cụ thể các tiêu chí gồm có:
C thể hiện mức chi tiêu của tất cả các loại hình dịch vụ, hàng hóa, sản phẩm của một gia đình trong năm.
G thể hiện mức chi tiêu của chính phủ bao gồm những yếu tố như chính sách, dịch vụ, đường xá, trường học, an ninh, giáo dục, giao thông…
I là chỉ số phản ánh mức chi tiêu của những nhà đầu tư trong đó có tính cả những khoản chi tiêu của các tập đoàn, doanh nghiệp đối với phát triển nhà xưởng và thiết bị hoạt động.
Cuối cùng, NX hay còn gọi là cán cân thương mại thể hiện mức xuất khẩu của một đất nước. NX được xác định bằng cách sử dụng tổng giá trị xuất khẩu trừ cho giá trị nhập khẩu.
4.2 Tính GDP dựa trên tổng chi phí
Nếu dựa trên tổng chi phí để xác định GDP những yếu tố có liên quan đến chi phí trong một khu vực kinh tế sẽ bao gồm tiền lãi, lợi nhuận, tiền lương, những khoản tiền thuê trong nội địa. Ta sẽ có cách xác định như sau:
GDP = W + I + Pr + R + Ti + De
Cụ thể các yếu tố cấu thành công thức bao gồm:
W chính là tiền lương của thị trường.
I là tiền lãi phải trả khi sử dụng vốn.
Pr là lợi nhuận mà nền kinh tế thu được.
R là tiền thuê.
Ti là ký hiệu của loại thuế thu gián tiếp, thuế gián thu sẽ không được áp dụng vào thu nhập hay các loại tài sản của người đóng thuế mà nó sẽ được tính trên các loại dịch vụ và hàng hóa.
De là tổng giá trị được tính khấu hao đối với các loại tài sản cố định.
4.3 Tính GDP dựa theo giá trị sản xuất
GDP = Tổng giá trị tăng thêm + Thuế nhập khẩu
Hoặc GDP cũng có thể được xác định bằng: Giá trị sản xuất được trên thị trường – tổng các loại chi phí trung gian + tổng giá trị thuế nhập khẩu.
Trong đó phần giá trị tăng thêm của thị trường sẽ bao gồm giá trị thặng dư, giá trị khấu hao tài sản cố định, bảo hiểm, các loại thuế phát sinh trong quá trình sản xuất, thu nhập của người lao động, tiền công, các loại thu nhập khác,…
5. GDP và GNP phân biệt như thế nào?
5.1 Giống nhau
Cả hai chỉ số đánh giá đều được sử dụng rất phổ biến trong quá trình phân tích sức mạnh kinh tế của một đất nước trên thế giới. 2 chỉ tiêu thường sẽ được tính dựa trên khoản thời gian 1 năm và xác định bằng các công thức tính cụ thể.
5.2 Khác nhau
Nếu GDP là chỉ tiêu để đánh giá tổng sản phẩm tiêu dùng trong nước thì GNP sẽ phản ảnh rộng hơn khi nó thể hiện tổng giá trị sản phẩm cả trong và ngoài nước sản xuất được.
GDP là chỉ số thể hiện tổng sản phẩm, hàng hóa mà nền kinh tế trong nước có thể sản xuất ra được trong khoản thời gian 1 năm. GNP lại tính tổng lượng hàng hóa đó dựa trên quốc tịch của công dân của nước đó. Chính vì thế các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài, hay những người xuất khẩu lao động, làm việc tại quốc gia khác cũng sẽ là yếu tố được tính vào GNP.