Ở một đất nước, để có thể đánh giá được nền kinh tế của họ đang phát triển như thế nào, đánh giá được khách quan tình hình chung thì có rất nhiều chỉ số có thể làm được điều này. Từ những thông tin này mà phản ánh lên được về nền kinh tế đang mạnh sẽ hay dần suy yếu. Bài viết sẽ cung cấp thông tin về chỉ số GNI là gì, cách tính GNI, mối liên hệ của chỉ số này với chỉ số quốc dân GDP cũng như tình hình của Việt nam trong 10 năm qua theo GNI.
1. GNI là gì?
GNI được viết tắt bởi cụm từ Gross National Income, đây là tất cả mức thu nhập được hình thành từ những hoạt động sản xuất kinh doanh trong quốc và quốc tế ở những doanh nghiệp của nước đó. GNI phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh ở nền kinh tế quốc nội cộng với doanh thu ròng.
Thu nhập ròng này sẽ bao gồm tiền thuế, lợi nhuận, tiền nhân sự,… đến từ nước ngoài trong thời gian là 1 năm. Ở khía cạnh kỹ thuật, GNI là giá trị thị trường của tất cả những sản phẩm dịch vụ được tạo ra bởi những yếu tố sản xuất quốc nội.
Ví dụ: Xe thể thao Ford (SUV) có giá trị làm ở Hoa Kỳ và giá trị của chiếc Ford SUB làm ở Mexico dùng số vốn và kiểm soát bởi Hoa Kỳ, tất cả đều sẽ tính trong giá trị GNI của Hoa Kỳ. Trái lại, chiếc xe Toyota Nhật SUV có giá trị sản xuất ở Mỹ tuy nhiên lại dùng mức vốn và kiểm soát bởi Nhật thì tính vào GNI của Nhật chứ không tính cho Hoa Kỳ.
GNI là một trong các yếu tố trong nền kinh tế tổng hợp chính yếu dùng để nhận xét sự tăng trưởng kinh tế một cách đa khía cạnh và đúng năng lực của một nước, là nền tảng để thực hiện những nghiên cứu chuyên sâu về các mối quan hệ sản xuất, điều phối, doanh thu và những mối liên kết kinh tế vĩ mô khác.
2. Cách tính GNI
2.1 GNI tính theo giá hiện hành:
GNI = GDP + mức chênh giữa thu nhập từ người lao động Việt Nam tại nước khác gửi về và doanh thu từ những người nước ngoài tại Việt Nam gửi ra + mức chênh giữa doanh thu sở hữu nhận từ nước ngoài và doanh thu sở hữu thanh toán cho nước ngoài.
GNI: Tổng thu nhập quốc dân
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
Mức lệch giữa doanh thu và phần phải trả về doanh thu lao động ở nước ngoài trong GNI được tính thông qua phần còn lại giữa những mức doanh thu về tiền lương và thu nhập lao động cùng những mức doanh thu khác có bản chất trả lương lao động cho người lao động Việt Nam đang sống ở nước ngoài nhận được thông qua các đơn vị cơ quan doanh nghiệp nước ngoài. Mức phải trả về lương lao động của những tổ chức, đơn vị dân cư sản xuất đang sinh sống ở Việt Nam thanh toán cho người lao động ở nước ngoài hiện đang sinh sống ở Việt Nam.
Mức lệch giữa mức doanh thu sở hữu nhận được từ nước ngoài với doanh thu sở hữu thanh toán cho nước ngoài trong GNI là phần còn lại của doanh thu sở hữu từ đơn vị và dân cư đang sinh sống ở Việt Nam nhận được ở nước ngoài, doanh thu sở hữu của đơn vị và dân cư không sinh sống ở Việt Nam.
Doanh thu hay khoản phải trả sỡ hữu trong GNI sẽ có những khoản sau:
Doanh thu hay phần phải trả về lợi tức đầu tư trực tiếp đối với nước ngoài.
Doanh hay hay cần phải trả lợi tức đầu tư của các khoản có giá trị gồm: chứng khoán, hay một vài giấy tờ và các dụng cụ tài chính khác.
Doanh thu hay khoản phải trả lợi tức về khoản thuê, mướn, bản quyền sáng tạo, quyền khai thác, cho thuê bất động sản, vùng trời, biển, biên giới,….
2.2 GNI tính theo giá so sánh
Dựa trên mức giá so sánh, GNI sẽ được tính thông qua công thức theo hình bên dưới:
3. Mối quan hệ của GDP và GNI
Bên cạnh GNI, chúng ta có GDP là viết tắt của một từ tiếng Anh Gross Domestic Product, đây là tổng giá trị sản phẩm quốc nội. GDP là một trong những chỉ số để tính toán tổng giá trị thị trường thông qua những hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được tạo ra ngay trên phạm vi lãnh thổ của một đất nước xét trong khoảng thời gian nhất định, thông thường tính theo năm hay quý.
Chỉ số GNI và GDP có sự gắn kết khá thân thiết với nhau. Như bạn đã thấy thì GNI được tính bằng cách lấy GDP cộng cho mức chênh lệch giữa tiền lương người lao động Việt nam tại nước khác chuyển về và doanh thu của người nước ngoài tại Việt Nam chuyển ra cộng cho mức chênh giữa doanh thu sở hữu có được từ nước khác với doanh thu sở hữu thanh toán cho nước khác.
Nhìn một cách dễ hiểu hơn thì GNI là tổng số tiền mà nhân dân của quốc gia có được sau khi đã cộng hay trừ ra khoản tiền mà những người nước ngoài chuyển về quốc gia họ.
Bình thường thì GDP và GNI sẽ không quá khác biệt vì khoản tiền mà người nước ngoài chuyển về nước sẽ khớp với khoản tiền mà nhân dân ta làm ở nước ngoài chuyển về. Khi mà có sự chênh lệch diễn ra giữa hai chỉ số này thì GNI sẽ được dùng để nhận xét nền kinh tế có đang vững chắc và phát triển trong đất nước đó hay không.
4. Chỉ số phát triển GDP và GNI:
Ở nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đưa ra quyết định rằng cho đến năm 2030, kỷ niệm 1 thiên niên kỷ thành lập Đảng, chúng ta là quốc gia đang phát triển, tích hợp công nghiệp hiện đại hóa, nâng cao mức thu nhập trung bình. Những yếu tố này đều được đánh giá thông qua chỉ số GNI và GDP.
TS. Võ Đình Trí, giảng viên của trường đại học Kinh tế TP.HCM và trường IPAG Business School Paris đồng thời là thành viên Tổ chức AVSE Global (Khoa học và Chuyên gia Việt Nam) đã đưa ra quan điểm rằng GNI và GDP là hai chỉ số có tầm ảnh hưởng lớn đến sự đánh giá, xếp thứ hạng nền kinh tế. Mặc dù vậy, GNI và GDP cũng có điểm khác nhau ví dụ như: GDP sẽ chính yếu quan tâm đến mức tăng trưởng, độ lớn của nền kinh tế từ những hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mang lại giá trị gia tăng còn GNI thì quan trọng đến sự thịnh vượng nhiều hơn.
GDP là chỉ số được quỹ tiền tệ quốc tế áp dụng khá rộng rãi trong khi chỉ số GNI lại được ưa chuộng hơn bởi liên hợp quốc và Ngân hàng thế giới. GNI chú trọng dựa trên nguồn lực quốc nội. Mặc dù dùng nó không thể nói lên được tất cả về sự phát triển của một nền kinh tế trong một quốc gia tuy nhiên đã có nhiều research nói lên việc GNI có sự liên quan gắn kết với một chỉ số chất lượng cuộc sống. Do đó, khi đi đến điểm đích là sự bền vững của nền kinh tế thì GNI lại xem là hiệu quả hơn GDP.
5. GNI Việt Nam thay đổi như thế nào theo các năm?
Dựa trên những thông tin ghi lại ở trang data.worldbank.org, chỉ số GNI tính theo trung bình đầu người ở nước chúng ta trong 10 năm thể hiện theo bảng sau:
Từ các số liệu được ghi nhận có thể thấy rằng chỉ số GNI Việt Nam đã có mức tăng đều đặn qua các năm, mức tăng là 210 đô la của năm 2019 so với 2018, 250 đô la của năm 2018 so với 2017…Thể hiện qua biểu đồ dưới đây:
Lời kết
Và đó là những thông tin về chỉ số GNI là gì mà bạn cần quan tâm. Những chỉ số này rất quan trọng với nền kinh tế của một quốc gia, nó phản ánh lên rất nhiều điều với bạn bè quốc tế chúng ta đang như thế nào. Ngoài ra GNI cùng các chỉ số khác cũng cho bạn biết thông tin cơ bản và khái quát về một thị trường, để bạn có thể cân nhắc đưa ra kế hoạch đầu tư của mình trong dài hạn theo GNI.